Bài thơ: Gửi Ngoại nơi xa

Thứ Tư, 24 tháng 12, 2014

( Dâng ngoại lần giỗ thứ 8 của Người )

Bẩy, tám, chín mươi ngoại vẫn một mình lọ mọ
Thổi niêu cơm, tro và gạo trộn cùng
Mỗi lần nhìn con nước mắt lưng tròng
Con đi đi, ngoại không ở với cháu.
Nhà có đông người đâu, mẹ một con, bà có 3 cháu
Mẹ con đã “ đi” trước bà để lũ cháu cút côi
90 tuổi người vẫn lẻ bóng đơn côi
Cháu “ lừa “ mãi bà mới ra Hà nội
3 năm trời gần bà nhưng cháu càng xót xa tủi hận
Tuổi hạc cao, bà lẫn cẫn mất rồi
Còn đâu những ngày nắng hạ mưa Đông
Bà đọc Kiều, hát dân ca và kể về đời mình cho cháu
Cháu lớn lên vịn câu hát làm Người.
Nhìn cháu trưởng thành thấy mắt bà vui
Người chắt chiu từng xu, góp gom cho cháu
Bởi bố mẹ cháu nghèo nên vai Người nặng gánh
80 tuổi trời vẫn đầu chợ cuối sông.
Ra với cháu, bà còn nhớ không
Vẫn thèm thuốc lào, hương vị của quê hương Vĩnh Bảo
Ngày này cách đây đúng 8 năm
Ngoại đi mãi mà không bao giờ về nữa
Cháu đã mất mẹ rồi
Lại cút côi cả ngoại
Ngoài 30 tuổi đầu đã biết nghĩ gì đâu.
8 năm qua, mưa nắng dãi dầu
Mỗi lần về quê con không dám thăm mái nhà xưa Ngoại ạ
Vật đấy người đâu đắng đót đến không cùng.
Hãy yên lòng, thưa ngoại, ngoại ơi
Cháu đang sống theo nếp xưa ngoại dậy
Dù cuộc đời bể- dâu, ngang- trái
Vẫn giữ lòng mình, không hổ thẹn với người xưa.

Mai Văn Lạng

Trả lời vua - Truyện Xiển Bột

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014

Ðồn rằng có một lần vua ngự tuần ra Thanh Hóa. Nghe nói con cháu Trạng Quỳnh vẫn còn, vua bèn cho đòi đến. Xiển vâng lệnh tới hầu. Vua hỏi:
- Trước khi Trạng chết có trối trăng lại điều chi không?
Xiển đáp: - Dạ có ạ!
Vua bảo: - Thế nhà ngươi hãy thuật lại lời Trạng trối trăng cho ta nghe.
- Dạ tâu Hoàng thượng, cố tôi trước khi từ trần chỉ trối lại có một câu thôi ạ!
- Một câu cũng được, cứ nói ta nghe.
- Dạ, nhưng tôi không dám nói ạ!
- Tại sao!
- Dạ, nói ra sợ Hoàng thượng không được vui lòng.
- Ðược cứ nói, dù câu nói ấy thế nào ta vẫn không bắt tội.
Xiển năm bảy lần từ chối, vua năm bảy lần gặng hỏi, sau cùng Xiển mới thưa:
- Dạ, tâu Hoàng thượng, ông tôi kể lại rằng: "Trước khi cố tôi nhắm mắt, con cháu xúm xít quanh giường hỏi cố tôi có dặn con cháu điều chi không. Nhưng cố tôi không trả lời. Con cháu không yên tâm, cứ gặng hỏi mãi, cố tôi chỉ quát lên một câu: "Hỏi cái mả cha bay hay sao mà hỏi mãi thế?", rồi tắt thở.

Hồ Xuân Hương Thi Tập

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014

Hồ Xuân Hương - 胡春香
Hồ Xuân Hương Tác Phẩm Thân Thế và Văn Tài
Giáo sư Nguyễn Văn Hanh

Ðôi dòng tiểu sử

  •  "Bà Chúa thơ Nôm" là con của Hồ Sĩ Danh (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, và một người thiếp quê ở Hải Dương.


  •  Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Ðình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839).


  • Bà là em cùng cha với Hồ Sĩ Ðống (1738-1786), đậu Hoàng Giáp, làm quan đến Hành Tham Tụng, tước Quận Công, cùng Bùi Huy Bích đứng đầu phủ chúa Trịnh Sâm, Trịnh Khải.


  • Tác phẩm nổi bật nhất của bà là số thơ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập (dù có đôi bài đáng nghi vấn). Ngoài ra bà còn để lại tập thơ chữ Hán tựa đề Lưu Hương Ký.


  • Thơ văn bà có ý lẳng lơ, mai mỉa, tinh nghịch, táo bạo, nhưng chứa chan tình cảm lãng mạn, thoát ly hẳn với những lễ giáo phong kiến thời bấy giờ.


  • Cách tả cảnh, tả tình, cách dùng từ... trong thơ Nôm của bà có một không hai, vô cùng sống động và đặc sắc. Xuân Diệu đánh giá thơ Hồ Xuân Hương là "tót vời của nguồn thơ nôm na bình dân".


Quả Mít

Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó, nhựa ra taỵ

Ốc Nhồi
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Ðêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

Con Cua
Em có mai xanh, có yếm vàng,
Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghêng ngang.
Xin theo ông Khổng về Ðông Lỗ,
Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.

Bánh Trôi Nước
Thân em vừa trắng, lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Mời ăn Trầu
Quả cau nho nhỏ,miếng trầu ôi,
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.

Ðền Thái Thú
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.

Tức Cảnh Tề Sở

Ðằng quốc tôi nay vốn nhỏ nhen,
Hai bên Tề Sở giữa mà len,
Ngảnh mặt lại Tề e Sở giận,
Quay đầu về Sở sợ Tề ghen.

Ðồng Tiền Hoển
Cũng lò cũng bễ, cũng cùng than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Ðủ đồng ắt cũng đóng nên quan.

Dỗ Bạn Khóc Chồng
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng.
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em nhé.
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung.

Sư Bị Ong Châm
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
Ði đâu chẳng đội để ong châm.
Ðầu sư há phải gì bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái lầm.

Sư Bị Làng Ðuổi
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.

Bọn Ðồ Dốt
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống, đem vôi quét trả đền

Cảnh Thu
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
Ơ hay, cánh cũng ưa người nhỉ,
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.

Bà Lang Khóc Chồng
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng, chàng ơi, vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì, sao để lại,
Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?
Sinh kỳ, chàng ơi, tử tắc quy.

Ðánh Ðu
Tám cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá!
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.

Tát Nước
Ðang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhỏm bên bờ đít vắt ve.
Mải miết làm ăn quên cả mệt,
Dang bang một lúc đã đầy phè.

Hỏi Cô Hàng Sách
Cô hàng lấy sách cắp ra đây!
Xem thử truyện nào thú lại say.
Nữ tú có bao xin xếp cả,
Phương hoa phỏng liệu có còn hay...?
Tuyển phu mặc ý tìm cho kỹ,
Chinh phụ thế nào bán lấy may.
Kỳ ngộ bích câu xin tiện hỏi,
Gía tiền cả đó tính sao vay.

Hỏi Trăng
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.
Hỏi con bạch thố đà bao tuổi,
Hở chị Hằng Nga đã mấy con?
Ðêm tối cớ chi soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?

Ðền Trấn Quốc
Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu,
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau!
Một tòa sen lạt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong điểm áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn.
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa, cảnh cũ đâu đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.

Giễu Quan Hậu
Tình cảnh ấy, nước non này,
Dẫu không Bồng Ðảo cũng tiên đây.
Hoành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,
Thúy lĩnh đen trùm một thức mây.
Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,
Phất phơ sườn núi lá thu bay.
Hỡi người quân tử đi đâu đó?
Ðến cảnh sao mà đứng lượm tay.

Chùa Quán Sứ
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo.
Sáng banh không kẻ khua tang mít,
Trưa trật nào người móc kẽ rêu.
Cha kiếp đường tu sao lắt léo,
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo.

Hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá, tài xuyên tạc,
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.

Chùa Hương
Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom.

Hang Thanh Hóa
Khen thay con tạo khéo khôn phàm,
Một đố dương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo, rờ rậm rạp.
Lách khe nước rỉ, mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiể lưng tròn đứng giữ am.
Ðến mới biết rằng hang Thanh Hóa,
Chồn nhân, mỏi gối, hãy còn ham.

Chợ Trời
Khen thay con Tạo khéo trêu ngươi.
Bày đặt ra nên cảnh chợ Trời!
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi, buôn danh nào những kẻ,
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.

Ðài Khán Xuân
Êm ái, chiều xuân tới khán đài,
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai.
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng,
Một vũng tang thương nước lộn trời.
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây, chín rõ mười.

Chùa Xưa
Thày tớ thung dung dạo cảnh chùa,
Thơ thì lưng túi, rượu lưng hồ.
Cá khe lắng kệ, mang nghi ngóp,
Chim núi nghe kinh, cổ gật gù.
Then cửa từ bi chen chật cánh,
Nén hương tế độ cắm đầy lô.
Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí,
Phúc đức như ông được mấy bồ?

Quán Nước Bên Ðường
Ðứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Ðường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo.
Ba trạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc, cỏ leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai thả lộn lèo.

Qua Kẽm Trống
Hai bên thì núi, giữa thì sông,
Có phải đây là kẽm Trống không?
Gió đập cành cây khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
Vào trong hang đá hơi còn hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.

Ðèo Ba Dội
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Ðầm đià lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân, quân tử ai là chẳng...
Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo.

Giếng Nước
Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng ấy thanh tân, giếng lạ lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nuớc trong leo lẻo một dòng thông!
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá giếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai đã biết?
Ðố ai dám thả nạ rồng rồng

Nhà Sư
Chẳng phải là Ngô, chẳng phải ta,
Ðầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt, năm ba phẩm,
Vãi mọp sau lưng, bảy tám bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,
Giọng hì, giọng hí, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ lên sư cụ,
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà!

Quan Thị
Mười hai bà mụ ghét chi nhau?
Ðem cái xuân tình vứt bỏ đâu?
Rúc rích thây cha con chuột lắt,
Vo ve mặc kệ cái ong bầu.
Ðố ai biết được vông hay chóc,
Còn kẻ nào hay cuống với đầu.
Thôi thế thì thôi, thôi cũng được,
Nghìn năm khỏi bị tiếng nương dâu.

Thiếu Nữ Ngủ Ngày
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Ðôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Ðào nguyên nước chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Ði thì cũng dở, ở không xong.

Cảnh Làm Lẽ
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.

Thương
Há dám thương đâu kẻ có chồng,
Thương vì một nỗi hãy còn không.
Thương con cuốc rũ kêu mùa Hạ,
Thương cái bèo non giạt bể Ðông.
Thương cha mẹ nhện vương tơ lưới,
Thương vợ chồng Ngâu cách mặt sông.
Ấy thương quân tử thương là thế,
Há dám thương đâu kẻ có chồng.

Duyên Kỳ Ngộ
Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.
Tấc gang tay họa thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh.
Tuy không thả lá trôi dòng ngự,
Chim tới vườn đào thế mới xinh.

Chửa Hoang
Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm có thấy hỡi chăng chàng?
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đành nẩy nét ngang
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có nhưng mà có mới ngoan.

Gìa Kén Kẹn Hom
Bụng làm dạ chịu trách chi ai,
Già kén kẹn hom ví chẳng sai.
Tiếc đĩa hồng ngâm cho chuột vọc,
Thừa mâm bánh ngọt để ngâu vầy.
Miệng khôn trôn dại đừng than phận,
Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời!
Ðừng đứng núi này trông núi nọ,
Ðói lòng nên mới phải ăn khoai.

Dệt Vải
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con cò mấp máy suốt đêm thâu.
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
Rộng, hẹp, nhỏ, to, vừa vặn cả.
Ngắn, dài, khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,
Chờ đến ba thu mới dãi mầu.

Tranh Hai Tố Nữ
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Ðôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Phiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh.
Còn thú vui kia sao chẳng thấy,
Trách ông thợ vẽ khéo vô tình!

Cái Quạt Giấy (Bài 1)
Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dáng tự ngàn xưa.
Vành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?

Cái Quạt Giấy (Bài 2)
Mười bảy hay là mười tám đây?
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dầy chừng ấy chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào cắm một cây.
Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát,
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.

Tự Tình (Bài 1)
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn.
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vừng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Ðâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.

Tự Tình (Bài 2)
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không thua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử , văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom.

Tự Tình (Bài 3)
Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lêng đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

Ðánh Cờ
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Ðét đồn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Ðể đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Ðem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.

Mắng Học Trò Dốt I
Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

Khóc Tổng Cóc
Chàng Cóc ơi ! Chàng cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

Khóc Ông Phủ Vĩnh Tường
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi !
Cái nợ ba sinh đã trả rồi,
Chôn chặt văn chương ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn khép lại rồi
Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc,
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi !

Ðề Ðền Sầm Nghi Ðống
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu
Hầu Nghi Xuân Tiên Ðiền nhân
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu (1) mấy
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
(1) sương siu: vấn vương

Trách Chiêu Hổ I
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
Này này chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hầm chớ mó tay !

Trách Chiêu Hổ II
Sao nói rằng năm lại có ba ?
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhớ hái cho xin nắm lá đa.

Trách Chiêu Hổ III
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe,
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè.
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám,
Chưa dám cho nên phải rụt rè.

Cánh diều-Trần Hồng

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Cho em bay với…Diều ơi
Bố em bỏ mẹ em rồi…còn đâu
Còn đâu lớp chín lớp mười mà mong
Lớp Chín càng chín nỗi đau
Bữa cơm nhai đắng ngọn rau mẹ trồng
Niềm thương nỗi nhớ bềnh bồng
Diều như con mắt mẹ trông mẹ chờ…
Gió đừng làm đứt dây tơ
Cho em sống trọn tuổi thơ cánh diều


Chặn người dùng, và ứng dụng làm phiền trong facebook

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

Facebook rất tiện lợi dùng để kết nối với bạn bè, nhưng có những người làm phiền, những ứng dụng được mời liên tục, gây phiền toái. Để tránh phiền toái này tôi viết một bài hướng dẫn nhỏ để chặn những người dùng và những ứng dụng gây phiền toái.
Đây là một mẹo nhỏ khi sử dụng facebook nhưng không phải ai cũng biết nên bài viết được viết một cách ngắn gọn. Mời các bạn làm theo hướng dẫn của hình vẽ. chỉ vài ba bước là mọi phiền toái được loại bỏ.
Bước 1.Vào phần thiết lập-Như mũi tên chỉ trong hình.


Bước 2: vào phần chặn:-như mũi tên chỉ trong hình. nếu bạn nào sử dụng facebook tiếng anh thì nó sẽ là blocking.

Bước 3: chặn: Các bạn có thể lựa chọn chặn người dùng để chặn các người dùng facebook làm phiền bạn bằng cách thêm người đó vào danh sách chặn. những người này sẽ không thể tìm thấy bạn trên facebook, không thể làm phiền được nữa. Hoặc chặn những ứng dụng làm phiền bằng cách thêm nó vào danh sách những ứng dụng mà bạn muốn chặ. -Cuối cùng làm thật đơn giản, như hình vẽ bên dưới.

Hờn trách con đò - Dương Ngọc Thái

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014


Ca Khúc : Hờn trách con đò 
Sáng Tác : Phi Bằng
Ca Sĩ : Dương Ngọc Thái 

Lời Bài Hát: Hờn trách con đò 

Cố gọi con đò, nhưng con đò dường như chẳng nghe
Cố gọi tôi về, nhưng tôi nào đâu có còn nghe
Mà tôi nhẫn tâm xem như là không có chuyện gì
Nào đâu có hay em đau lòng khóc ở bờ sông.

Chắc tại tôi làm em đau lòng mà không nói ra
Chắc tại con đò đưa tôi về nơi bến yên vui
Ðò ơi cớ sao quên bao lời hứa hẹn ngọt nào
Ðể cho bến sông mang nỗi nhớ đêm ngày chờ mong.

Thầm trách gì tôi, sao thay lòng đổi dạ mà chi
Ðể bến chiều nay không còn trông thấy được con đò
Nước sông vơi đầy bao tháng ngày mà em cứ trông
Ánh trăng hao gầy suốt đêm dài mà em vẫn mong.

Còn nhớ còn thương xin quay về bến đợi người ơi
Ðể bến đò xưa không còn ai cứ gọi: ơi đò
Nói không nên lời, em khóc vì đời em nhỏ nhoi
Ðã yêu nhau rồi sao nỡ làm vầng trăng vỡ đôi.

Lỡ Bước Sang Ngang - NSUT Thanh Ngoan

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014


Xẩm Lỡ Bước Sang Ngang
Làn điệu: Xẩm Tàu Điện, Thập Ân, Xẩm Chợ, Ngâm Bồng Mạc, Ngâm Sa Mạc
Lời thơ: Nguyễn Bính
Biểu diễn: NSUT Thanh Ngoan - Mai Tuyết Hoa

Xẩm Nhị Tình - Thùy Linh

Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014



Xẩm Nhị Tình
Biểu diễn: NS Thùy Linh

Những tuyệt phẩm nhạc vàng trữ tình hay nhất thu âm trước năm 1975



Những tuyệt phẩm nhạc vàng trữ tình hay nhất thu âm trước năm 1975

Lòng Dạ Đàn Bà - Cua Đực Cua Cái



Vua nước Sở một hôm lòng thanh thản,

Cởi long bào giả dạng một thường dân,

Vác cần câu ra ngồi dựa thạch bàn,

Lòng vương giả mơ màng theo sóng nước.

Gió động ngàn lau khua xào xạc, Sở Vương mới thả hồn theo những chiếc lá khô rơi tản mạn cuối chân trời. Lòng quân vương bỗng xúc động mối tâm tình. Đưa tay vuốt chòm râu bạc, nhắp chén rượu đào nghiền ngẫm chuyện gần xa. Bỗng ngài đưa mắt nhìn một hang cua dưới thạch bàn, cua cái nằm lột vỏ trong hang, cua đực ngày đêm lo canh giữ cho vợ hiền, quên cả việc ra đi tìm mồi cho đỡ đói.

Mấy ngày sau khi coi bề hiền thê cứng cáp, vợ chồng cua mới sánh vai nhau đi dạo mát cạnh giang hà. Sở Vương đứng ngắm đôi vợ chồng cua âu yếm đậm đà. Ngài mới cất tiếng khen rằng, "Lành thay cho tình chồng vợ, đẹp bấy nghĩa đạo tào khang. Rất đỗi loài vật còn nặng chữ phu thê, huống chi làm người ai chẳng trọng câu luân thường đạo lý. Chữ "nhất dạ đồng sàng hề chung dạ ái, nhất nhật phu thê hề bá dạ ân."

Tháng lại ngày qua, nước thủy triều mấy phen lên xuống giữa trường giang. Hoa hồng, hoa điệp rụng rơi từng cánh mỏng. Đến ngày cua đực lột vỏ, thì cua cái mặc tình đi dọc, về ngang, bỏ cua đực nằm hiu quạnh trong hang, con ác phụ đã sanh lòng tàn ác. Nó dắt về một gã nhân tình có đôi càng to lớn để xé xác anh chồng bạc số vô duyên. Sở Vương thấy cảnh bạc đen, cất tiếng than rằng, "Hỡi bể rộng trời cao! Đàn bà lòng dạ hiểm sâu, ngoài môi lại nói những câu chung tình."

Ôi! Ngán ngẫm bấy ân tình thế thái,
Não nùng thay, tối độc phụ nhân tâm.
Lòng Sở Vương như muối xát kim châm,
Giận bấy kẻ ân tình không giữ trọn.

Để thử xem lòng dạ thế nhân ai người đen trắng, nên ngài mới viết bảng truyền rao khắp cả dân tình. Truyền cho thần dân hãy tuân theo sắc lệnh của triều đình. Tất cả đàn bà Sở quốc, ai can đảm giết chồng đem thủ cấp dâng lên, được ban nhất phẩm phu nhân, lụa là gấm vóc, vàng ròng mười xe. Từ trong thành nội ban ra, chiếu vua nước Sở gần xa đặng tường.

Chiếu chỉ truyền ra chưa đầy nửa tháng thì từ các mệnh phụ phu nhân, cho đến những trang thiếu nữ chung tình. Họ cắt thủ cấp người yêu đến hoàng cung mong sao hưởng được lộc triều đình. Sở Vương dằn lòng căm giận, nhưng cũng phê liền một chiếu thứ hai, "Ai, ai can đảm giết đặng vợ nhà, Trẫm sẽ chia phân nửa giang san Sở quốc." Một năm lặng lẽ trôi qua, không có một gã đàn ông nào đến hoàng cung để lãnh thưởng, bởi không ai nỡ cầm gươm giết thác vợ mình.

Thế rồi một hôm có một gã nông phu nghèo khổ, áo chẳng đặng lành, cơm chẳng đủ ăn, xin vào triều bái kiến đức vua, nhận gươm báu về nhà để giết vợ. Vua nhận lời trao kiếm và di hành theo gót kẻ nhà quê. Khi anh ta về tới mái lều tranh, đứng bên vách nghe tiếng vợ hiền ru con nghe não nuột, anh vội buông gươm, cất tiếng khóc van và chạy tìm Sở Vương dập đầu tạ tội, "Bệ hạ ơi, ngu dân cam chịu chết, chứ không có nỡ nhẫn tâm xuống tay giết thác bạn tâm đồng." Sở Vương cất tiếng ngợi khen và truyền đem châu báu ngọc ngà ban thưởng. Cho hay trong đạo vợ chồng, biết ai chung thủy, ai lòng bạc đen.

P/s : Chả riêng cua cái mà loài bọ ngựa ( bọ cạp) cứ mỗi lần "yêu" xong là con đực bị con cái nhai rau ráu luôn. Túm lại, giống cái của các loài vật đều sẵn sàng xơi tái con đực không thương tiếc. Nuốt chửng ! Dã man kinh. Hệ Hệ

Ca Trù: Hồng Hồng Tuyết Tuyết, NSND Quách Thị Hồ (Version 2)


http://www.musiclandvietnam.com/ Quách Thị Hồ, Ca trù Hồng Hồng Tuyết Tuyết (Đào hồng Đào tuyết), Ca nương số 1 Việt Nam.
----------------------------------------­-------------------------
* "Có người ví tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi một tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy. Tiếng hát ấy vừa cao sang bác học, vừa mê hoặc ám ảnh, diễn tả ở mức tuyệt đỉnh nhất các ý tứ của các văn nhân thi sĩ gửi gắm trong các bài thơ". * "Chất giọng khỏe, đanh, sắc như đổ vàng vào tai người nghe, chất giọng đầy uy quyền có thể hiếp đáp được người nghe".
Mưỡu II:
----------------------------------------­---------
Non xanh xanh, nước xanh xanh

Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa

Ấy ai tháng đợi năm chờ

Mà người ngày ấy bây giờ là đây!

Hát nói:

Hồng Hồng Tuyết Tuyết

Mới ngày nào còn chưa biết chi chi

Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì

Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu

Ngã lãng du thời quân thượng thiếu

Quân kim hứa giá ngã thành ông

(Lúc ta giang hồ, em còn bé,

Nay em đủ lớn, lão già rồi)

Cười cười nói nói sượng sùng

Mà bạch phát hồng nhan chừng ái ngại

Riêng một thú thanh sơn đi lại

Khéo ngây ngây dại dại với tình

Đàn ai một tiếng dương tranh.

http://www.musiclandvietnam.com/


[Nhạc Quê Hương] Saxophone Hay Nhất của Trần Mạnh Tuấn

Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014



Quê hương - Lời thơ: Đỗ Trung Quân
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

ĐK:
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá ngiêng che
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một Mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

Xẩm Sướng Khổ Vì Chồng



Xẩm: Sướng Khổ Vì Chồng
Làn Điệu: Xẩm Xoan
Biểu Diễn: Tô Minh Cường - Thu Phương

Xẩm: Lấy Chồng Già



Xẩm: Lấy Chồng Già
Biểu diễn: NSƯT Thanh Ngoan

Xẩm: Có Nhớ Quê Chăng - Đình Cương


Xẩm: Có Nhớ Quê Chăng
Lời: Dân Huyền
Hát + Nhị: Đình Cương
Bộ gõ: Đình Tân

Xẩm Cô Hàng Nước



Xẩm: Cô Hàng Nước
Làn điệu: Tàu Điện
Biểu diễn: NSƯT Thanh Ngoan - Mai Tuyết Hoa
Album: Xẩm Hà Nội

Ngãi mẹ sinh thành


Lời bài Xẩm Thập Ân


Công cha ngãi mẹ sinh thành   
(ngãi: tình nghĩa, giống từ nghĩa)
Mang con chín tháng thai sinh một giờ
Trong lòng chẳng ngại tanh dơ
Nuôi con từ thủa ngây thơ như là
Chớ quên ngãi mẹ công cha
Công mẹ cũng lắm công cha thời nhiều
Nào khi bồng bế nâng niu
Sinh con đâu quản công lao nhọc nhằn
Nào khi con bú con ăn
Đêm nằm quần áo chiếu chăn ướt đằm
Ướt thời mẹ chịu đành tâm
Ráo xê con lại con nằm cho êm
Đốt đèn suốt cả thâu đêm
Chờ cho con ngủ ấm êm mẹ nằm
Mong ngày mong tháng mong năm
Mong bao giờ được lớn khôn bằng người
Dạy con phải giữ đạo trời
Kính thờ cha mẹ là người hiếu trung
Thái sơn phụ mẫu ngàn trùng
(phụ mẫu: cha mẹ. Câu này ý nói công lao cha mẹ như núi thái sơn vô cùng không kể xiết)
Khuyên con giữ đạo hiếu trung thảo hiền
Mẹ cha (thời già) chân yếu tay mềm
Đền cơm giả sữa kẻo phiền mẹ cha
(đền cơm giả sữa; báo hiếu công ơn cha mẹ nuôi dưỡng ta)
Nuôi con tươi tốt bằng hoa
Phòng khi tuổi luống khi già nhờ con (tuổi luống: tuổi đã nhiều)
Bõ công lội suối trèo non
Mẹ cha tích đức cho con sau này
Có tiên thời hậu mới hay
(tiên: trước, hậu: sau. Câu này khuyên con ăn ở có trước có sau.)
Cha trồng cây đức mẹ rầy đền ân
Khuyên con giữ đạo hiếu thân 
(đạo hiếu thân: đạo làm con giữ chữ hiếu với cha mẹ)
Cảm thương cha mẹ ân cần ra con
Mặc ai phải đạo làm con
Nhớ công cha mẹ lại càng nhớ thương
Thập ân ngẫm tới con thương
Lặng nghe tôi kể đoạn trường khúc nhôi
(đoạn trường khúc nhôi: nỗi niềm tâm sự xót xa như đứt từng khúc ruột vậy)
Một ân mẹ mới có thai
Âm dương nhị khí nào ai biết gì
Trong lòng mẹ chịu sầu bi
Miệng thời cay đắng dạ thời héo hon
Bữa ăn không biết miếng ngon
Đắng cay chua xót vì con đêm ngày
Hai ân ngãi mẹ bao tày
Mang con chín tháng có thai nặng nề
Thương con đi sớm về trưa
Của ngon vật lạ chẳng hề ước ao
Mang mể khó nhọc ôm giao
(mang mể: đeo mang gánh vác nhọn nhằn 
có thể dùng từ mang mển nghĩa là mang thai)
Nặng nề mẹ chịu quản bao công trình
Ba ân mùa tới tháng sinh
Khác gì ruột mẹ một mình ai ương (ai ương: khó chịu)
Kể từ thập nguyệt thai dương
( coi thời gian mang thai là mười tháng)
Thâm bào mang mể cùng con nhọc nhằn
Mang con vật lạ không ăn
Đã được chín tháng trông mong mười ngày
Tới tuần hoa nở liền tay (tới lúc sinh nở)
Bao giờ con đấy mẹ đây với mừng
Nén vàng lạng bạc nào bằng
Nâng thời bằng ngọc coi bằng bông hoa
Lắng nghe con khóc trong nhà
Xót xa lòng mẹ được mà lòng con
Sinh thành đạo đức núi non
Vì con mẹ chịu chiếu giường tanh hôi
Cù lao vất vả con ơi (cù lao : công lao cha mẹ)
Góc bể biên trời lai láng cồn toan (rộng lớn khôn xiết)
Bốn ân thảm thiết cơ hàn
Tanh dơ lai láng chứa chan ướt đằm
Ướt thời mẹ chịu đành tâm
Ráo xê con lại con nằm cho êm
Đốt đèn suốt cả thâu đêm
Chờ cho con ngủ ấm êm mẹ nằm
Năm ân sài ghẻ con cam (bệnh của trẻ con)
Của ngon vật lạ không ham không hề
Bao nhiêu của lạ vật kì
Miếng ngon miếng ngọt nhường thì cho con
Miếng nào cay đắng không ngon
Chịu khó ăn vậy cho con như vầy
Sáu ân con khóc (mẹ) lo thay
Ru đêm quên ngủ ru ngày quên ăn
Mùa đông giá rét căm căm
Chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo xê con
Thiếu gì của lạ miếng ngon
Thiếu gì thịt cá giò nem ngọt bùi
Cơm ăn với muối (mẹ) khen bùi
Nước kia đắng ngắt biết mùi gì ngon
Bảy ân tới lúc lên hoa (lên hoa: bệnh đậu mùa)
Biết bao khó nhọc xót xa đêm ngày
Để thời nặng nhọc đắng cay
Tốn bao tiền của thuốc thầy quản chi
Trông mong từng cữ từng thì
Chăm con từng tí từng ti lo dần
Con đau mẹ chẳng an thân
Mẹ cha những nỗi lo dần vì con
Thương thay lúc mẹ bồng con
Tuôn đôi dòng lệ như nguồn non xanh
Đói no mẹ nhịn cho đành
Cầu cho con khỏe mạnh lành là hơn
Tám ân xiết nỗi nguồn cơn
Thời lòng cha mẹ nghĩ quên đớn sầu
Bể trời rộng cả cao sâu
Lấy cân ai nhấc ai hầu được chưa
Lo dần ngày tháng thoi đưa
Gió mưa đã trải bây giờ mới hay
Quế nhung tiền nợ ông thầy 
(quế nhung: thứ thuốc bổ cho trẻ con)
Tốn bao nhiêu của đêm ngày vì con
Mẹ thời khoi khóp héo hon
(khoi khóp: chịu đựng cực khổ hao gầy hình dáng)
Gia tài cơ nghiệp vì con những là
Cầu cao bể rộng đã qua
Bấy giờ cha mẹ với đà an thân
Cả lớn khôn cha mẹ mừng thầm.
Thần hôn khuya sớm ân cần dạy nuôi
(thần: sớm; hôn: tối, khuya)
Thấy con ăn nói tươi cười
Bấy giờ cha mẹ mới nguôi trong lòng
Thấy con đẹp đẽ hình dong (hình dong: hình dáng)
Bấy giờ cha mẹ bằng lòng dưỡng sinh
Chín ân con đã trưởng thành
Gái trai định liệu học hành văn chương
Trai thời thi đỗ khoa trường
Khôi nguyên nhất cử bảng vàng đề danh
Gái thời lại dạy hiển vinh
Nhã nhặn nhu mì ngôn hạnh công dung
Mười ân cưới vợ gả chồng
Con con cháu cháu thong dong thọ trường
Chả gì hơn phụ mẫu tại đường 
(phụ mẫu tại đường: cha mẹ còn trong nhà
cha mẹ chưa khuất núi)
Tử tôn hưng thịnh văn chương đời đời
Thập ân từ đó mà thôi.